Skip to main content

DÂN SỰ - Xác định vợ/chồng của người để lại di sản


Thừa kế theo pháp luật
Vấn đề 1: Xác định vợ/chồng của người để lại di sản
1.         Điều luật nào của BLDS quy định trường hợp thừa kế theo pháp luật?
Trả lời:
Trong BLDS, Điều 675 qui định về trường hợp thừa kế theo pháp luật:
1.      Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong những trường hợp sau đây:
a) Không có di chúc;
b) Di chúc không hợp pháp;
c) Những người thừa kế theo di chúc đều chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn vào thời điểm mở thừa kế;
d) Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối quyền nhận di sản.
2.      Thừa kế theo pháp luật cũng được áp dụng đối với các phần di sản sau đây:
a) Phần di sản không được định đoạt trong di chúc;
b) Phần di sản có liên quan đến phần của di chúc không có hiệu lực pháp luật;
c) Phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng họ không có quyền hưởng di sản, từ chối quyền nhận di sản, chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; liên quan đến cơ quan, tổ chức được hưởng di sản theo di chúc, nhưng không còn vào thời điểm mở thừa kế.

2.         Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án áp dụng thừa kế theo pháp luật trong vụ việc được nghiên cứu.
Trả lời:
Việc Tòa án áp dụng thừa kế theo pháp luật trong vụ việc được nghiên cứu là hoàn toàn hợp lí vì trong vụ việc này, khi cụ Thát, cụ Tần và cụ Thứ mất đều không để lại di chúc hợp pháp cũng không chứng minh được các cụ có để lại di chúc miệng hay di chúc tay. Thêm vào đó, lời khai của hai bên đương sự không đồng nhất về di chúc của cụ Tần và việc cụ Thát và cụ Thứ có phải là vợ chổng hay không. Vì thế, sau quá trình điều tra, xác minh, làm rõ vụ việc, Tòa án đã áp dụng thừa kế theo pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người thừa kế theo pháp luật. Tuy nhiên, trong bản án có đề cập đến việc sau khi cụ Thát mất, cụ Tần và cụ Thứ đều cùng nhau nuôi dạy các con nên việc không chia thừa kế của các mẹ kế cho các con là chưa thỏa đáng, cần xem xét thêm về tình cảm giữa họ để chia thừa kế cho thỏa đáng theo Điều 679 BLDS.
3.         Vợ/chồng của người để lại di sản thuộc hàng thừa kế thứ mấy? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trả lời:
Vợ/chồng của người để lại di sản thuộc hàng thừa kế thứ nhất.
Cơ sở pháp lí: Điểm a, Khoản 1 Điều 676: Người thừa kế theo pháp luật.
1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
4.         Cụ Thát và cụ Thứ có đăng ký kết hôn không? Vì sao?
Trả lời:
Cụ Thát và cụ Thứ không đăng ký kết hôn vì trong vụ việc không hề có bất cứ giấy tờ nào chứng minh hai cụ đã đăng kí kết hôn. Theo như lời khai của các bên thì cụ Thứ là vợ hai của cụ Thát (ông Thăng không công nhận điều này). Việc hai cụ có được coi là vợ chồng của nhau hay không phải phụ thuộc vào những chứng cứ có liên quan khác như bản sơ yếu lí lịch của bà Nguyễn Thị Khiết (trong phần hoàn cảnh gia đình có ghi: dì ghẻ Phạm Thị Thứ 45 tuổi...) và xác nhận của họ hàng, hàng xóm, lời khai của các nhân chứng có liên quan khác. Sau đó, Tòa mới khẳng định: ‟Với các chứng cứ nêu trên có đủ cơ sở để khẳng định là cụ Phạm Thị Thứ là vợ hai cụ Thát.”
5.         Trong trường hợp nào những người chung sống với nhau như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn được hưởng thừa kế của nhau? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trả lời:
Trong những trường hợp sau, những người chung sống với nhau như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn được hưởng thừa kế của nhau:
§  Trường hợp thứ nhất: Hôn nhân không đăng kí kết hôn nhưng được thừa nhận là hôn nhân thực tế.
Cơ sở pháp lí:
v 1/1996 tại Hội nghị tổng kết ngành Tòa án năm 1995 Chánh án TANDTC chỉ đạo những cuộc hôn nhân nào thỏa mãn đầy đủ các điều kiện kết hôn nhưng không đăng kí kết hôn: ‟đã sống chung với nhau hàng chục năm, có tài sản chung hoặc con cái chung thì có thể coi là hôn nhân thực tế để đảm bảo quyền lợi chính đáng cho các bên đương sự, nhất là phụ nữ.”
v Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 9/6/2000 của Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam về việc thi hành luật HNGĐ đã hướng dẫn chi tiết tại Khoản 3: Việc áp dụng quy định tại khoản 1 Điều 11 của Luật này được thực hiện như sau:
a) Trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03 tháng 1 năm 1987, ngày Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực mà chưa đăng ký kết hôn thì được khuyến khích đăng ký kết hôn; trong trường hợp có yêu cầu ly hôn thì được Tòa án thụ lý giải quyết theo quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đìnhnăm 2000;
b) Nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03 tháng 1 năm 1987 đến ngày 01 tháng 1 năm 2001, mà có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này thìcó nghĩa vụ đăng ký kết hôn trong thời hạn hai năm, kể từ ngày Luật này có hiệu lực cho đến ngày 01 tháng 1 năm 2003; trong thời hạn này mà họ không đăng kýkết hôn, nhưng có yêu cầu ly hôn thì Tòa án áp dụng các quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết.
Từ sau ngày 01 tháng 1 năm 2003 mà họ không đăng ký kết hôn thì pháp luật không công nhận họ là vợ chồng;
c) Kể từ ngày 01 tháng 1 năm 2001 trở đi, trừ trường hợp quy định tại Điểm a và Điểm b Khoản 3 của Nghị quyết này, nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, đều không được pháp luật công nhận là vợ chồng nếu có yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng; nếu có yêu cầu về con và tài sản thì Tòa án áp dụng Khoản 2 và Khoản 3 Điều 17 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết.
§  Trường hợp thứ hai: Người chồng có nhiều vợ hoặc ngược lại và cán bộ, bộ đội đã có vợ ở miền Nam sau khi tập kết ra Bắc lại lấy vợ hoặc chồng khác.
Cơ sở pháp lí:
Nghị quyết 02/HĐTP-TANDTC ngày 19/10/1990 đã quy định tại Khoản a Điều 4: VỀ NHỮNG NGƯỜI THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT.
a) Trong trường hợp một người có nhiều vợ (trước ngày 13-01-1960 - ngày công bố Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 - đối với miền Bắc; trước ngày 25-3-1977 - ngày công bố danh mục văn bản pháp luật được áp dụng thống nhất trong cả nước - đối với miền Nam và đối với cán bộ, bộ đội có vợ ở miền Nam sau khi tập kết ra Bắc lấy thêm vợ mà việc kết hôn sau không bị huỷ bỏ bằng bản án có hiệu lực pháp luật), thì tất cả các người vợ đều là người thừa kế hàng thứ nhất của người chồng và ngược lại, người chồng là người thừa kế hàng thứ nhất của tất cả các người vợ.

6.         Ngoài việc sống với cụ Thứ, cụ Thát còn sống với người phụ nữ nào? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
Trả lời:
Ngoài việc sống với cụ Thứ, cụ Thát còn sống với cụ Tần là vợ cả của cụ và có bốn người con chung. Điều này thể hiện trong bản án ở đoạn đầu: ‟Bố mẹ các bà là cụ Nguyễn Tất Thát (chết năm 1961) có 2 vợ, vợ cả là cụ Nguyễn Thị Tần (chết năm 1995), vợ hai là cụ Phạm Thị Thứ (chết năm 1994). Cụ Thát và cụ Tần có 4 người con chung là: Nguyễn Tất Thăng, Nguyễn Thị Bằng, Nguyễn Thị Khiết, Nguyễn Thị Triển.” và trong đoạn Xét thấy: ‟các đương sự đều thống nhất là cụ Thát mất năm 1961 có vợ là cụ Tần mất năm 1995 có 4 người con là ông Thăng, bà Bằng, bà Khiết và bà Triển” cũng như việc Tòa án chấp nhận chia thừa kế của của Thát cho bà Tần theo hàng thừa kế thứ nhất là vợ chồng và thanh toán tài sản chung của vợ chồng giữa cụ Thát với cụ Tần và cụ Thứ.

7.         Nếu cụ Thát và cụ Thứ chỉ bắt đầu sống với nhau như vợ chồng vào cuối năm 1960 thì cụ Thứ có là người thừa kế của cụ Thát không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trả lời:
Nếu cụ Thát và cụ Thứ chỉ bắt đầu sống với nhau như vợ chồng vào cuối năm 1960 thì cụ Thứ không là người thừa kế của cụ Thát vì theo Nghị quyết 02/HĐTP-TANDTC ngày 19/10/1990 thì chỉ những cuộc hôn nhân được công bố trước ngày 13-01-1960 - ngày công bố Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 - đối với miền Bắc mới được công nhận là vợ chồng và là người thừa kế ở hàng thứ nhất của nhau.
 8.         Câu trả lời cho câu hỏi trên có khác không khi cụ Thát và cụ Thứ sống ở miền Nam? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
 Trả lời:
Câu trả lời cho câu hỏi trên sẽ khác khi cụ Thát và cụ Thứ sống ở miền Nam vì theo Nghị quyết 02/HĐTP-TANDTC ngày 19/10/1990 thì những cuộc hôn nhân được công bố trước ngày 25-3-1977 - ngày công bố danh mục văn bản pháp luật được áp dụng thống nhất trong cả nước - đối với miền Nam đều được công nhận nên cụ Thát và cụ Thứ sẽ được công nhận là vợ chồng và là người thừa kế hàng thứ nhất của nhau. Như vậy, nếu cụ Thát và cụ Thứ bắt đầu chung sống với nhau như vợ chồng từ cuối năm 1960 là trước thời điểm ngày 25/3/1977 thì sẽ được công nhận là vợ chồng.

9.         Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án thừa nhận cụ Thứ là người thừa kế của cụ Thát.
Trả lời:

Việc Tòa án thừa nhận cụ Thứ là người thừa kế của cụ Thát là hợp tình hợp lí vì trong bối cảnh nước ta lúc bấy giờ vẫn còn chịu nhiều ảnh hưởng của phong kiến và tục đa thê. Điều này giúp bảo vệ quyền lợi chính đáng của cụ Thứ cũng như con của cụ.

Comments

Popular posts from this blog

DÂN SỰ - Lấn chiếm tài sản liền kề

THẢO LUẬN DÂN SỰ - BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU Lấn chiếm tài sản liền kề Xem thêm  Dân sự - Bảo vệ quyền sở hữu Xem thêm  Dân sự - Đòi bất động sản từ người thứ ba Xem thêm  Dân sự - Di sản thừa kế 1.      Đoạn nào của Quyết định số 23 cho thấy ông Tận đã lấn sang đất thuộc quyền sử dụng của ông Trường, bà Thoa và phần lấn cụ thể là bao nhiêu? Trả lời: Đoạn đầu phần xét thấy của quyết định số 23/2006/ DS-GĐT ngày 7/9/2006: “Ông Diệp Vũ Trê và ông Nguyễn Văn Hậu tranh chấp 185 mét vuông đất giáp ranh, hiện do ông Hậu đang sử dụng…thì có căn cứ xác định ông Hậu đã lấn đất ông Trê.”  Qua đoạn trên của bản án đã cho thấy ông Hậu đã lấn sang đất thuộc quyền sử dụng của ông Trê bà Thi và phần đất lấn cụ thể là 185 mét vuông. 2.      Đoạn nào của Quyết định số 617 cho thấy gia đình ông Hòa đã lấn sang đất (không gian, mặt đất, lòng đất) thuộc quyền sử dụng của gia đình ông Trụ, bà Nguyên? Trả lời: Quyết định số ...

HÌNH SỰ PHẦN CHUNG - Khách thể của tội phạm

KHÁCH THỂ CỦA TỘI PHẠM Xem thêm  HÌNH SỰ PHẦN CHUNG - C4 - Cấu thành tội phạm Xem thêm  HÌNH SỰ PHẦN CHUNG - C3 - Phân loại tội phạm 7 Khách thể của tội phạm là các quan hệ xã hội mà luật hình sự có nhiệm vụ điều chỉnh. Câu nhận định trên là sai. Vì khách thể của tội phạm là mối quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại. 8 Mỗi tội phạm chỉ có một khách thể trực tiếp. Câu nhận định trên là sai. Vì thông thường mỗi tội phạm có 1 khách thể trực tiếp nhưng trong 1 số trường hợp vì phạm tội trực tiếp xâm hại đến nhiều quan hệ xã hội khác nhau được luật hình sự bảo vệ mà mỗi quan hệ xã hội chỉ thể hiện một phần bản chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi, phải kết hợp tất cả các quan hệ xã hội bị tội phạm trực tiếp xâm hại mới thể hiện đầy đủ bản chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội ấy. VD: tội cướp tài sản 9 Mọi tội phạm suy cho cùng đều xâm hại đến khách thể chung. Câu nhận định trên là đúng. Vì khách thể c...

DÂN SỰ - Di sản thừa kế

Quy định chung về thừa kế - Di sản thừa kế 1. Di sản là gì và có bao gồm cả nghĩa vụ của người quá cố không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời. Căn cứ theo Điều 634: Di sản Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác. Di sản thừa kế có thể là hiện vật, tiền, giấy tờ trị giá được thành tiền, quyền tài sản thuộc sở hữu của người để lại di sản. Việc xác định di sản thừa kế mà người chết để lại căn cứ vào giấy tờ, tài liệu chứng minh quyền sở hữu hoặc sử dụng hợp pháp đối với khối tài sản đó. Đối với trường hợp di sản thừa kế là tài sản thuộc sở hữu chung thì việc xác định tài sản chung của người để lại di sản có thể dựa trên những thỏa thuận đã có từ trước hoặc căn cứ vào văn bản do cơ quan có thẩm quyền ban hành. Về vấn đề di sản của bao gồm nghĩa vụ hay không thì có nhiều quan điểm chung quanh vấn đề này. Quan điểm thứ nhất cho rằng di sản bao gồm cả nghĩa vụ để bảo đảm quyền lợi ...