Skip to main content

DÂN SỰ - Di chúc tài sản của người khác

Di chúc tài sản của người khác

1.      Cụ Hương đã định đoạt tài sản nào? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?
Cụ Hương đã định đoạt tài sản là toàn bộ căn nhà và đất số 302 Nguyễn Thượng Hiền, phường 5, quận Phú Nhuận. Câu trả lời nằm ở đoạn: ‟Ngày 06/04/2009, cụ Nguyễn Văn hương chết, để lại di chúc có nội cung chia toàn bộ căn nhà và đất số 302 Nguyễn Thượng Hiền, phường 5, quận Phú Nhuận cho 5 người con là: Nguyễn Ngọc Đức, Nguyễn Hữu Nghĩa, Nguyễn Ngọc Hiếu, Nguyễn Hữu Dũng, Quảng Thị Kiều (vợ Nguyễn Hữu Trí), di chúc đã được công chứng tại phòng công chứng số 4 thành phố Hồ Chí Minh ngày 16/01/2009.”; và đoạn: ‟Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thể hiện nguồn gốc tại địa chỉ 25D/19 Nguyễn Văn Đậu (nay là 302 Nguyễn Thượng Hiền, phường 5, quận Phú Nhuận) được Ủy ban nhân dân quận Phú Nhuận cấp giấy chứng nhận cho cụ Nguyễn Văn Hương vào năm 1994. Ngày 16/01/2009, cụ Hương lập di chúc để lại toàn bộ nhà đất cho các con là Nguyễn Ngọc Đức, Nguyễn Hữu Nghĩa, Nguyễn Ngọc Hiếu, Nguyễn Hữu Dũng, Quảng Thị Kiều (vợ Nguyễn Hữu Trí).”
^
2.      Đoạn nào của Quyết định cho thấy tài sản cụ Hương định đoạt trong di chúc là tài sản chung của vợ chồng cụ Hương?
Quyết định cho thấy tài sản cụ Hương định đoạt trong di chúc là tài sản chung của vợ chồng cụ Hương thể hiện ở đoạn: Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh ‟Công nhận căn nhà số 302 Nguyễn Thượng Hiền, phường 5, quận Phú Nhuận (số cũ 25D/19 Nguyễn Văn Đậu) có diện tích 680,6 m2, giá trị tiền xây dựng nhà 433.587.700 đồng là tài sản chung của cụ Hương và cụ Quý. Giao ½ căn nhà số 302 Nguyễn Thượng Hiền, phường 5, quận Phú Nhuận  có diện tích 340,3m2 cho cụ Quý và ½ giá trị tiền xây dựng nhà 216.793.850 đồng là tài sản thuộc quyền sở hữu của cụ Lê Thanh Quý.”; và đoạn: ‟Tuy nhiên, về nội dung thì di chúc chỉ có giá trị một phần bởi nhà đất trên là tài sản chung của vợ chồng cụ Hương và cụ Quý. Việc cụ Hương lập di chúc cho toàn bộ nhà đất cho 5 người con trong khi không có sự đồng ý của cụ Quý là không đúng.”


3.      Tòa án đã công nhận phần nào của di chúc? Đoạn nào của quyết định cho câu trả lời?
Tòa án đã công nhận di chúc có hiệu lực một phần đối với phần tài sản của cụ Hương (1/2 nhà đất), thể hiện ở đoạn: ‟Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử di chúc của cụ Nguyễn Văn Hương có hiệu lực một phần đối với phần tài sản của cụ Hương (1/2 nhà đất) nên được chia đều cho 5 người là các ông bà Nguyễn Ngọc Đức, Nguyễn Hữu Nghĩa, Nguyễn Ngọc Hiếu, Nguyễn Hữu Dũng, Quảng Thị Kiều (vợ Nguyễn Hữu Trí) sau khi đã chia cho cụ Quý 2/3 suất thừa kế theo pháp luật; còn ½ diện tích đất còn lại được chia cho cụ Quý; phần giá trị căn nhà theo định giá thì được chia cho cụ Quý ½ và thêm 2/3 suất thừa kế theo pháp luật và phần còn lại chia đều cho 5 người con được hưởng thừa kế theo di chúc của cụ Hương là có căn cứ.”
^
4.      Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm.
Hướng giải quyết trên của tòa án là hoàn toàn hợp lí. Vì theo khoản 4 Điều 667 BLDS 2005: “Khi di chúc có phần không hợp pháp mà không ảnh hưởng đến hiệu lực của các phần còn lại thì chỉ phần đó không có hiệu lực pháp luật.”
“Nếu một bên vợ hoặc chồng lập di chúc riêng định đoạt toàn bộ tài sản chung của vợ chồng thì di chúc này chỉ bị vô hiệu một phần. Phần di chúc định đoạt trong giới hạn ½ tài sản chung (thuộc quyền sở hữu của cá nhân người lập di chúc) vẫn được xem là hợp pháp và có hiệu lực. Phần di chúc vượt quá ½ tài sản chung bị vô hiệu vì có nội dung trái pháp luật.”[1]
Và căn cứ theo Điều 669, cụ Quý dù không có tên trong di chúc vẫn được hưởng thừa kế theo pháp luật. Do đó, Tòa sơ thẩm đã tiến hành phân chia lại tài sản chung và thừa kế cho cụ Quý; Tòa giám đốc thẩm cũng đồng ý với sự phân chia này. Như vậy có thể thấy quyết định này là hoàn toàn phù hợp với pháp luật, đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cụ Quý.

·        Điều 669. Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc
Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật, nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó, trừ khi họ là những người từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 642 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 643 của Bộ luật này:
1. Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
2. Con đã thành niên mà không có khả năng lao động.
^
5.      Nếu cụ Quý chết trước cụ Hương thì phần nào của di chúc có giá trị pháp lý? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Nếu cụ Quý chết trước cụ Hương thì di chúc của cụ Hương có giá trị pháp lý đối với phần tài sản của cụ Hương và phần thừa kế theo pháp luật của cụ Hương khi cụ Quý chết (vì cụ Quý không phải là người thừa kế theo di chúc của cụ Hương nên không áp dụng khoản 2 điều 667). Cụ thể bao gồm: ½ diện tích đất còn lại được chia cho cụ Hương; phần giá trị căn nhà theo định giá thì được chia cho cụ Hương ½ và thêm phần thừa kế theo pháp luật.
Theo đó: chia ½ căn nhà số 302 Nguyễn Thượng Hiền, phường 5, quận Phú Nhuận  có diện tích 340,3m2 cho cụ Quý và ½ giá trị tiền xây dựng nhà là 216.793.850 đồng, phần thừa kế của cụ Quý (do không nói rõ là có di chúc hay không) ta chia di sản thừa kế theo pháp luật thì cụ Hương sẽ được hưởng: 340,3 : 12 = 28,6m2 diện tích đất và giá trị tiền xây dựng nhà là 216.793.850 : 12 = 18.066.154 đồng. Tổng cộng phần tài sản của cụ Hương sẽ là: 368,9m2 và giá trị tiền xây dựng nhà là 234.860.004 đồng. Do đó, phần di sản này của cụ Hương trong di chúc sẽ có giá trị pháp lí.
Cơ sở pháp lí:
·        Khoản 4 điều 667 BLDS 2005: “Khi di chúc có phần không hợp pháp mà không ảnh hưởng đến hiệu lực của các phần còn lại thì chỉ phần đó không có hiệu lực pháp luật.”
·        Điểm a Khoản 1 điều 675: Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong những trường hợp sau đây: Không có di chúc.
·        Điểm a khoản 1 Điều 676: Người thừa kế theo pháp luật
1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
^
6.      Nếu tài sản được định đoạt trong di chúc chỉ thuộc sở hữu của cụ Hương vào đầu tháng 4/2009 thì di chúc của cụ Hương có giá trị pháp lý không? Vì sao?
Nếu tài sản được định đoạt trong di chúc chỉ thuộc sở hữu của cụ Hương vào đầu tháng 4/2009 thì di chúc của cụ Hương không có giá trị pháp lý vì theo Điều 631: Quyền thừa kế của cá nhân: “Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật. Theo quy định này, cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản nhưng tài sản đó phải thuộc quyền sở hữu/sử dụng của người đó.” Điều 634 cũng quy định: “Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác.” Do đó, về mặt pháp lí, cụ Hương không có quyền lập di chúc để lại tài sản nếu tài sản đó không thuộc quyền sở hữu của cụ.
“Theo quy định của pháp luật dân sự, di chúc là sự thể hiện ý chí cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết. Tài sản của người lập di chúc để lại được gọi là di sản. Người lập di chúc có toàn quyền định đoạt đối với di sản của mình (để lại cho ai, tỉ lệ thừa hưởng…). Hiện nay, khi có yêu cầu công chứng, chứng thực di chúc, người lập di chúc phải chứng minh tài sản của mình là hợp pháp và có thật (nếu là nhà, xe, cổ phần, cổ phiếu… thì phải có chứng từ sở hữu; nếu là tiền thì được thể hiện qua tài khoản ngân hàng). Nói cách khác, đó phải là tài sản cụ thể. Nếu không chứng minh được tài sản ấy có thật thì cơ quan thẩm quyền sẽ từ chối công chứng, chứng thực di chúc. Đáng nói là có nhiều người lập di chúc có yêu cầu để lại những tài sản của mình có được tại thời điểm qua đời, tức bao gồm cả những tài sản hình thành trong tương lai. Mà những tài sản này thì không thể chứng minh tính có thật. Từ đó làm phát sinh tình huống mỗi lần được sở hữu một tài sản mới thì chủ sở hữu phải lập di chúc mới, có liệt kê thêm tài sản mới thì mới đảm bảo quyền định đoạt của mình đối với di sản.”[2]
Tuy nhiên, việc lập di chúc không bắt buộc người lập di chúc phải có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hay sở hữu nhà mới được lập di chúc mà chỉ cần có các giấy tờ chứng minh quyền sử dụng đất, sở hữu nhà, các giấy tờ làm căn cứ để xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sở hữu nhà được ghi nhận tại Điều 50 Luật đất đai năm 2003. Quy định này phần nào cởi mở và phù hợp với nhiều tình huống xảy ra trong thực tế.




[1] Lê Minh Hùng, Giáo trình Những vấn đề chung về Luật dân sự của ĐH Luật TP. Hồ Chí Minh, Nxb. Hồng Đức 2012, tr. 264.

[2]  LS Nguyễn Hồng Lâm, Lập di chúc khi chưa có tài sản thật? – Một số vấn đề pháp lý về chứng minh tài sản sau khi công chứng, chứng thực di chúc. 

Comments

Popular posts from this blog

DÂN SỰ - Lấn chiếm tài sản liền kề

THẢO LUẬN DÂN SỰ - BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU Lấn chiếm tài sản liền kề Xem thêm  Dân sự - Bảo vệ quyền sở hữu Xem thêm  Dân sự - Đòi bất động sản từ người thứ ba Xem thêm  Dân sự - Di sản thừa kế 1.      Đoạn nào của Quyết định số 23 cho thấy ông Tận đã lấn sang đất thuộc quyền sử dụng của ông Trường, bà Thoa và phần lấn cụ thể là bao nhiêu? Trả lời: Đoạn đầu phần xét thấy của quyết định số 23/2006/ DS-GĐT ngày 7/9/2006: “Ông Diệp Vũ Trê và ông Nguyễn Văn Hậu tranh chấp 185 mét vuông đất giáp ranh, hiện do ông Hậu đang sử dụng…thì có căn cứ xác định ông Hậu đã lấn đất ông Trê.”  Qua đoạn trên của bản án đã cho thấy ông Hậu đã lấn sang đất thuộc quyền sử dụng của ông Trê bà Thi và phần đất lấn cụ thể là 185 mét vuông. 2.      Đoạn nào của Quyết định số 617 cho thấy gia đình ông Hòa đã lấn sang đất (không gian, mặt đất, lòng đất) thuộc quyền sử dụng của gia đình ông Trụ, bà Nguyên? Trả lời: Quyết định số ...

HÌNH SỰ PHẦN CHUNG - Khách thể của tội phạm

KHÁCH THỂ CỦA TỘI PHẠM Xem thêm  HÌNH SỰ PHẦN CHUNG - C4 - Cấu thành tội phạm Xem thêm  HÌNH SỰ PHẦN CHUNG - C3 - Phân loại tội phạm 7 Khách thể của tội phạm là các quan hệ xã hội mà luật hình sự có nhiệm vụ điều chỉnh. Câu nhận định trên là sai. Vì khách thể của tội phạm là mối quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại. 8 Mỗi tội phạm chỉ có một khách thể trực tiếp. Câu nhận định trên là sai. Vì thông thường mỗi tội phạm có 1 khách thể trực tiếp nhưng trong 1 số trường hợp vì phạm tội trực tiếp xâm hại đến nhiều quan hệ xã hội khác nhau được luật hình sự bảo vệ mà mỗi quan hệ xã hội chỉ thể hiện một phần bản chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi, phải kết hợp tất cả các quan hệ xã hội bị tội phạm trực tiếp xâm hại mới thể hiện đầy đủ bản chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội ấy. VD: tội cướp tài sản 9 Mọi tội phạm suy cho cùng đều xâm hại đến khách thể chung. Câu nhận định trên là đúng. Vì khách thể c...

DÂN SỰ - Di sản thừa kế

Quy định chung về thừa kế - Di sản thừa kế 1. Di sản là gì và có bao gồm cả nghĩa vụ của người quá cố không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời. Căn cứ theo Điều 634: Di sản Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác. Di sản thừa kế có thể là hiện vật, tiền, giấy tờ trị giá được thành tiền, quyền tài sản thuộc sở hữu của người để lại di sản. Việc xác định di sản thừa kế mà người chết để lại căn cứ vào giấy tờ, tài liệu chứng minh quyền sở hữu hoặc sử dụng hợp pháp đối với khối tài sản đó. Đối với trường hợp di sản thừa kế là tài sản thuộc sở hữu chung thì việc xác định tài sản chung của người để lại di sản có thể dựa trên những thỏa thuận đã có từ trước hoặc căn cứ vào văn bản do cơ quan có thẩm quyền ban hành. Về vấn đề di sản của bao gồm nghĩa vụ hay không thì có nhiều quan điểm chung quanh vấn đề này. Quan điểm thứ nhất cho rằng di sản bao gồm cả nghĩa vụ để bảo đảm quyền lợi ...