Skip to main content

Tố giác hành vi lợi dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản


Tố giác hành vi lợi dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản


Tháng 6/2017 tôi có quen 1 người tên Duy (cùng chỗ làm và ở cùng phòng). Sau đó người này mượn xe của tôi sử dụng và tự ý mang đi cầm cố để lấy tiền sử dụng. Sau khi cầm cố thì anh ta hứa vài tháng sau sẽ chuộc về trả lại cho tôi nên tôi cũng chấp nhận. Tuy nhiên, hiện nay Duy đã về quê, có dấu hiệu bỏ trốn và không lên Sài Gòn. Tôi đã làm đơn khiếu nại đến công an phường để yêu cầu xử lý, nhưng đã được gần 5 tháng vẫn chưa được giải quyết. Xin hỏi trong trường hợp này tôi phải làm gì?
TRẢ LỜI:

Điều 175 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản như sau:
“1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả;
b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản…”

Trong trường hợp trên, Duy (bạn của bạn) đã có hành vi mượn xe (hợp đồng mượn tài sản), rồi đã mang xe đi cầm cố lấy tiền tiêu xài cá nhân và có dấu hiệu bỏ trốn về quê. Nếu chiếc máy trên có giá trị trên 4.000.000đ thì hành vi của Duy có thể cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nói trên và bạn hoàn toàn có thể khai báo, tố giác với cơ quan công an để can thiệp giải quyết.
Khoản 3 Điều 146 Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015 quy định: Công an phường, thị trấn, đồn Công an có trách nhiệm tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, lập biên bản tiếp nhận, tiến hành kiểm tra, xác minh sơ bộ và chuyển ngay tố giác, tin báo về tội phạm kèm theo tài liệu, đồ vật có liên quan cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền. Công an xã có trách nhiệm tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, lập biên bản tiếp nhận, lấy lời khai ban đầu và chuyển ngay tố giác, tin báo về tội phạm kèm theo tài liệu, đồ vật có liên quan cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền.

Bên cạnh đó, Điều 147 BLTTHS năm 2015 quy định về thời hạn, thủ tục giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố cụ thể như sau:
“1. Trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày nhận được tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải kiểm tra, xác minh và ra một trong các quyết định:
a) Quyết định khởi tố vụ án hình sự;
b) Quyết định không khởi tố vụ án hình sự;
c) Quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố.
2. Trường hợp vụ việc bị tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố có nhiều tình tiết phức tạp hoặc phải kiểm tra, xác minh tại nhiều địa điểm thì thời hạn giải quyết tố giác, tin báo, kiến nghị khởi tố có thể kéo dài nhưng không quá 02 tháng. Trường hợp chưa thể kết thúc việc kiểm tra, xác minh trong thời hạn quy định tại khoản này thì Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền có thể gia hạn một lần nhưng không quá 02 tháng.
Chậm nhất là 05 ngày trước khi hết thời hạn kiểm tra, xác minh quy định tại khoản này, Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải có văn bản đề nghị Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền gia hạn thời hạn kiểm tra, xác minh…”

Trong trường hợp nói trên của bạn, bạn đã tố giác hành vi vi phạm pháp luật của Duy với công an phường, và công an phường đã chuyển cho cơ quan điều tra để tiến hành điều tra vụ án, tuy nhiên đến nay đã 5 tháng nhưng chưa được giải quyết. Bạn cần tiếp tục yêu cầu cơ quan điều tra cung cấp các thông tin về quá trình giải quyết vụ việc nói trên bằng cách trực tiếp yêu cầu hoặc yêu cầu bằng văn bản cũng như cung cấp các thông tin, tài liệu cần thiết để góp phần làm rõ hành vi vi phạm của Duy.

Comments

Popular posts from this blog

DÂN SỰ - Di sản thừa kế

Quy định chung về thừa kế - Di sản thừa kế 1. Di sản là gì và có bao gồm cả nghĩa vụ của người quá cố không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời. Căn cứ theo Điều 634: Di sản Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác. Di sản thừa kế có thể là hiện vật, tiền, giấy tờ trị giá được thành tiền, quyền tài sản thuộc sở hữu của người để lại di sản. Việc xác định di sản thừa kế mà người chết để lại căn cứ vào giấy tờ, tài liệu chứng minh quyền sở hữu hoặc sử dụng hợp pháp đối với khối tài sản đó. Đối với trường hợp di sản thừa kế là tài sản thuộc sở hữu chung thì việc xác định tài sản chung của người để lại di sản có thể dựa trên những thỏa thuận đã có từ trước hoặc căn cứ vào văn bản do cơ quan có thẩm quyền ban hành. Về vấn đề di sản của bao gồm nghĩa vụ hay không thì có nhiều quan điểm chung quanh vấn đề này. Quan điểm thứ nhất cho rằng di sản bao gồm cả nghĩa vụ để bảo đảm quyền lợi ...

DÂN SỰ - Lấn chiếm tài sản liền kề

THẢO LUẬN DÂN SỰ - BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU Lấn chiếm tài sản liền kề Xem thêm  Dân sự - Bảo vệ quyền sở hữu Xem thêm  Dân sự - Đòi bất động sản từ người thứ ba Xem thêm  Dân sự - Di sản thừa kế 1.      Đoạn nào của Quyết định số 23 cho thấy ông Tận đã lấn sang đất thuộc quyền sử dụng của ông Trường, bà Thoa và phần lấn cụ thể là bao nhiêu? Trả lời: Đoạn đầu phần xét thấy của quyết định số 23/2006/ DS-GĐT ngày 7/9/2006: “Ông Diệp Vũ Trê và ông Nguyễn Văn Hậu tranh chấp 185 mét vuông đất giáp ranh, hiện do ông Hậu đang sử dụng…thì có căn cứ xác định ông Hậu đã lấn đất ông Trê.”  Qua đoạn trên của bản án đã cho thấy ông Hậu đã lấn sang đất thuộc quyền sử dụng của ông Trê bà Thi và phần đất lấn cụ thể là 185 mét vuông. 2.      Đoạn nào của Quyết định số 617 cho thấy gia đình ông Hòa đã lấn sang đất (không gian, mặt đất, lòng đất) thuộc quyền sử dụng của gia đình ông Trụ, bà Nguyên? Trả lời: Quyết định số ...

HÌNH SỰ PHẦN CHUNG - Mặt khách quan của tội phạm (tiếp theo)

CHƯƠNG 6. MẶT KHÁCH QUAN CỦA TỘI PHẠM (tiếp theo) Xem thêm:  HÌNH SỰ PHẦN CHUNG - C6 - Mặt khách quan của tội phạm NHẬN ĐỊNH 16 Hành vi phạm tội là dấu hiệu bắt buộc để định tội trong mọi cấu thành tội phạm. è Câu nhận định trên là đúng. Vì không có hành vi phạm tội thì không có CTTP 17 Tội liên tục là trường hợp phạm tội nhiều lần. è Câu nhận định trên là sai. Vì Tội liên tục là nhiều hành vi cùng loại xảy ra kế tiếp nhau về mặt thời gian hoặc có gián đoạn về mặt thời gian. 18 Hậu quả của tội phạm là dấu hiệu luôn được quy định trong cấu thành tội phạm cơ bản. è Câu nhận định trên là sai. Vì trong CTTP hình thức hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc. 19 Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả nguy hiểm cho xã hội là dấu hiệu định tội đối với tội phạm có cấu thành hình thức. è Câu nhận định trên là sai. Vì đây là dấu hiệu đối với CTTP vật chất. BÀI TẬP 7 (3) A là bác sĩ đa khoa: nguyên nhân chính ...