Skip to main content

Quy định pháp luật về việc cho vay nặng lãi


Vấn đề về cho vay nặng lãi
Bà A vay của bên vay nặng lãi với số tiền 90.000.000 đồng, tiền lãi là 9.000.000đ/1 tháng. Hiện nay Bà A đã bỏ trốn, nhóm người cho vay nặng lãi thường xuyên đến công ty và gia đình làm phiền ép người nhà bà A phải trả nợ, tuy nhiên trên giấy nợ Bà A có ký nhưng không ghi rõ nội dung về lãi phải trả và không có điểm chỉ vân tay, tờ giấy nợ cũng không được nguyên vẹn chỉ là một mảnh giấy nhỏ. Xin hỏi, trong trường hợp này Bà A sẽ bị xử lý như thế nào?

TRẢ LỜI:

1. Điều 463 Bộ luật dân sự (BLDS) năm 2015 quy định: Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định.

Hiện nay, pháp luật  không quy định hình thức của hợp đồng vay tiền bắt buộc phải lập thành văn bản nên các bên có thể giao kết, thỏa thuận về việc vay thông qua các hình thức như: lời nói, văn bản,.... Nếu có tranh chấp về hợp đồng vay mà phải khởi kiện tại tòa án thì các bên cần cung cấp chứng cứ để chứng minh về việc vay tiền hoặc trả tiền.

Điều 468 BLDS 2015 quy định về lãi suất cụ thể như sau:
“1. Lãi suất vay do các bên thỏa thuận. Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác. Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực.
2. Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất và có tranh chấp về lãi suất thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều này tại thời điểm trả nợ.”

Như vậy, căn cứ theo Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 thì: Mức lãi suất tối đa trong hợp đồng vay là 20% giá trị khoản vay/năm tương ứng với 1,67% giá trị khoản vay/tháng. Nếu không có quy định mức lãi suất đối với tiền lãi chậm trả thì lãi suất tối đa cho phần tiền lãi là: 10% tiền lãi trên nợ gốc tương ứng với 0,83%/tháng.

Nghĩa vụ thanh toán của bên cho vay bao gồm: (1). Nợ gốc; (2). Lãi trên nợ gốc trong thời hạn hợp đồng vay = Nợ gốc x lãi suất vay trong hợp đồng x thời hạn hợp đồng vay; (3). Lãi phát sinh đối với phần tiền lãi trên nợ gốc = Lãi trên nợ gốc x 0,83% x thời gian chậm trả; (4). Lãi trên nợ gốc quá hạn = Nợ gốc x 1,5 x lãi suất vay trong hợp đồng x thời gian quá hạn.

Như vậy, đối với trường hợp của Bà A, nếu có thông tin về thời hạn cho vay Bà A hoàn toàn có thể tính được khoản tiền mà Bà A phải trả theo quy định của pháp luật hiện nay.

2. Điều 201 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định về tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự, cụ thể như sau:
“1. Người nào trong giao dịch dân sự mà cho vay với lãi suất gấp 05 lần trở lên của mức lãi suất cao nhất quy định trong Bộ luật Dân sự, thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.
2. Phạm tội mà thu lợi bất chính 100.000.000 đồng trở lên155, thì bị phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm”.

Theo đó, hành vi khách quan của tội phạm này là hành vi cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự. Đó là hành vi cho vay với lãi suất gấp 5 lần trở lên của mức lãi suất cao nhất được quy định trong BLDS năm 2015. Hành vi này bị coi là tội phạm nếu thỏa mãn 1 trong các dấu hiệu sau:
- Thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng;
- Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.

Như vậy, đối với trường hợp của Bà A, theo quy định của BLDS năm 2015 thì Mức lãi suất tối đa trong hợp đồng vay nói trên là 20% giá trị khoản vay/năm tương ứng với 1,67% giá trị khoản vay/tháng, tức không quá 1.503.000đ/tháng. Tuy nhiên, trong trường hợp này Bà A lại phải trả đến tận 9.000.000đ/tháng cao hơn gấp gần 6 lần so với mức lãi suất cao nhất được quy định trong BLDS năm 2015 nói trên. Nếu hành vi cho vay nặng lãi này mà người cho vay thu lợi bất chính từ 30.000.000đ trở lên hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm thì có thể bị truy cứu TNHS theo Điều 201 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).


Comments

Popular posts from this blog

DÂN SỰ - Lấn chiếm tài sản liền kề

THẢO LUẬN DÂN SỰ - BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU Lấn chiếm tài sản liền kề Xem thêm  Dân sự - Bảo vệ quyền sở hữu Xem thêm  Dân sự - Đòi bất động sản từ người thứ ba Xem thêm  Dân sự - Di sản thừa kế 1.      Đoạn nào của Quyết định số 23 cho thấy ông Tận đã lấn sang đất thuộc quyền sử dụng của ông Trường, bà Thoa và phần lấn cụ thể là bao nhiêu? Trả lời: Đoạn đầu phần xét thấy của quyết định số 23/2006/ DS-GĐT ngày 7/9/2006: “Ông Diệp Vũ Trê và ông Nguyễn Văn Hậu tranh chấp 185 mét vuông đất giáp ranh, hiện do ông Hậu đang sử dụng…thì có căn cứ xác định ông Hậu đã lấn đất ông Trê.”  Qua đoạn trên của bản án đã cho thấy ông Hậu đã lấn sang đất thuộc quyền sử dụng của ông Trê bà Thi và phần đất lấn cụ thể là 185 mét vuông. 2.      Đoạn nào của Quyết định số 617 cho thấy gia đình ông Hòa đã lấn sang đất (không gian, mặt đất, lòng đất) thuộc quyền sử dụng của gia đình ông Trụ, bà Nguyên? Trả lời: Quyết định số ...

HÌNH SỰ PHẦN CHUNG - Khách thể của tội phạm

KHÁCH THỂ CỦA TỘI PHẠM Xem thêm  HÌNH SỰ PHẦN CHUNG - C4 - Cấu thành tội phạm Xem thêm  HÌNH SỰ PHẦN CHUNG - C3 - Phân loại tội phạm 7 Khách thể của tội phạm là các quan hệ xã hội mà luật hình sự có nhiệm vụ điều chỉnh. Câu nhận định trên là sai. Vì khách thể của tội phạm là mối quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại. 8 Mỗi tội phạm chỉ có một khách thể trực tiếp. Câu nhận định trên là sai. Vì thông thường mỗi tội phạm có 1 khách thể trực tiếp nhưng trong 1 số trường hợp vì phạm tội trực tiếp xâm hại đến nhiều quan hệ xã hội khác nhau được luật hình sự bảo vệ mà mỗi quan hệ xã hội chỉ thể hiện một phần bản chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi, phải kết hợp tất cả các quan hệ xã hội bị tội phạm trực tiếp xâm hại mới thể hiện đầy đủ bản chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội ấy. VD: tội cướp tài sản 9 Mọi tội phạm suy cho cùng đều xâm hại đến khách thể chung. Câu nhận định trên là đúng. Vì khách thể c...

DÂN SỰ - Di sản thừa kế

Quy định chung về thừa kế - Di sản thừa kế 1. Di sản là gì và có bao gồm cả nghĩa vụ của người quá cố không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời. Căn cứ theo Điều 634: Di sản Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác. Di sản thừa kế có thể là hiện vật, tiền, giấy tờ trị giá được thành tiền, quyền tài sản thuộc sở hữu của người để lại di sản. Việc xác định di sản thừa kế mà người chết để lại căn cứ vào giấy tờ, tài liệu chứng minh quyền sở hữu hoặc sử dụng hợp pháp đối với khối tài sản đó. Đối với trường hợp di sản thừa kế là tài sản thuộc sở hữu chung thì việc xác định tài sản chung của người để lại di sản có thể dựa trên những thỏa thuận đã có từ trước hoặc căn cứ vào văn bản do cơ quan có thẩm quyền ban hành. Về vấn đề di sản của bao gồm nghĩa vụ hay không thì có nhiều quan điểm chung quanh vấn đề này. Quan điểm thứ nhất cho rằng di sản bao gồm cả nghĩa vụ để bảo đảm quyền lợi ...