Điều kiện hưởng
án treo
Điều 65 BLHS năm 2015, (sửa đổi, bổ sung năm 2017) bắt
đầu có hiệu lực kể từ ngày 1/1/2018 có quy định về án treo, cụ thể như sau:
1. Khi xử phạt tù không quá 03 năm, căn cứ vào nhân
thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải
bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian
thử thách từ 01 năm đến 05 năm và thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử
thách theo quy định của Luật Thi hành án hình sự.
2. Trong thời gian thử thách, Tòa án giao người được
hưởng án treo cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc hoặc chính quyền địa
phương nơi người đó cư trú để giám sát, giáo dục. Gia đình người bị kết án có
trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương trong việc
giám sát, giáo dục người đó.
3. Tòa án có thể quyết định áp dụng đối với người được
hưởng án treo hình phạt bổ sung nếu trong điều luật áp dụng có quy định hình phạt
này.
4. Người được hưởng án treo đã chấp hành được một phần
hai thời gian thử thách và có nhiều tiến bộ thì theo đề nghị của cơ quan, tổ chức
có trách nhiệm giám sát, giáo dục, Tòa án có thể quyết định rút ngắn thời gian
thử thách.
5. Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng
án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần
trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù
của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì
Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với
hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật này.
Theo đó, án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt
tù có điều kiện, một mặt có tác dụng tạo điều kiện cho người bị kết án được học
tập, lao động và công hiến cho xã hội như những công dân bình thường khác, mặt
khác, khuyến khích người bị kết án tự tu dưỡng và lao động tại cộng đồng với sự
giúp đỡ tích cực của gia đình, xã hội, đồng thời cảnh báo người bị kết án nếu
vi phạm nghĩa vụ hoặc phạm tội mới trong thời gian thử thách thì họ sẽ phải chịu
hậu quả pháp lý rất nặng là phải buộc phải chấp hành hình phạt đã tuyên.
Để được hưởng án treo, người bị kết án phải thỏa mãn
các điều kiện sau các điều kiện sau:
+ Điều kiện thứ nhất: về mức hình phạt tù
Mức hình phạt tù là căn cứ đầu tiên để Tòa án xem
xét cho người bị kết án được hưởng án treo, theo đó, người bị Tòa án phạt tù
không quá 03 năm. Theo Nghị quyết 01/2013/NQ-HĐTP ngày 6/11/2013 về hướng dẫn
áp dụng Điều 60 của BLHS năm 1999 (Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP), về mức hình
phạt tù, chỉ xem xét cho người bị xử phạt tù hưởng án treo khi bị xử phạt tù
không quá 03 năm về tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng
theo phân loại tội phạm quy định tại khoản 3 Điều 8 của BLHS (mà không áp dụng
đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng). Trường hợp người bị xét xử trong cùng
một lần về nhiều tội mà khi tổng hợp hình phạt, hình phạt chung không quá 03
năm tù, thì cũng có thể cho hưởng án treo . Tuy nhiên, trường hợp này phải được
xem xét thận trọng và chặt chẽ để quyết định có cho hưởng án treo hay không.
+ Điều kiện thứ hai: về nhân thân người phạm tội
Nhân thân người phạm tội đó là tổng hợp những đặc điểm
riêng về mặt xã hội hoặc có ý nghĩa về mặt xã hội của người phạm tội, những đặc
điểm nhân thân có thể là tuổi, giới tính, nghề nghiệp, có án tích hay không
(tái phạm, tái phạm nguy hiểm…), trình độ văn hóa, hệ thống giá trị, thái độ… Đặc
điểm nhân thân người phạm tội không chỉ là căn cứ quan trọng của quyết định
hình phạt mà còn là căn cứ cần thiết để xem xét người phạm tội với điều kiện cụ
thể có khả năng tự giáo dục, cải tạo hay không để quyết định cho hưởng áp treo.
Theo quy định của tại Khoản 1 Điều 65 BLHS năm 2015, về điều kiện nhân thân người
phạm tội, để được hưởng án treo, người phạm tội phải có nhân thân tốt. Theo hướng
dẫn tại Nghị quyết 01/2013/NQ-HĐTP, thì có nhân thân tốt được chứng minh là
ngoài lần phạm tội này họ luôn tôn trọng các quy tắc xã hội, chấp hành đúng
chính sách, pháp luật, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của công dân nơi cư trú, công
tác; không vi phạm các điều mà pháp luật cấm; chưa bao giờ bị kết án, bị xử lý
vi phạm hành chính, bị xử lý kỷ luật .
Cũng theo hướng dẫn Nghị quyết 01/2013/NQ-HĐTP, một
số trường hợp áp dụng án treo phải được xem xét hết sức chặt chẽ, đó là: (i)
Trường hợp người phạm tội có án tích nhưng đã được xóa án tích, được đương
nhiên xóa án tích, được coi là chưa bị kết
án và (ii) trường hợp người phạm tội đã bị xử lý hành chính, xử lý kỷ luật
nhưng đã hết thời hạn được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính, xử lý kỷ luật
hoặc hết thời hiệu xử lý vi phạm hành chính, xử lý kỷ luật thì được coi là chưa
bị xử lý hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật, nhưng không phải là có nhân thân tốt.
Chỉ có thể xem xét cho hưởng án treo khi thuộc một trong các trường hợp sau:
- Người bị kết án từ trên 3 năm tù đến 15 năm tù về
tội do cố ý (kể cả trường hợp tổng hợp hình phạt của nhiều tội hoặc nhiều bản
án) mà thời gian được xóa án tích tính đến ngày phạm tội lần này đã quá 2 năm;
- Người bị kết án đến 3 năm tù về tội do cố ý mà thời
gian được xóa án tích tính đến ngày phạm tội lần này đã quá 1 năm;
- Người bị kết án về các hình phạt cảnh cáo, phạt tiền,
cải tạo không giam giữ mà thời gian được xóa án tích tính đến ngày phạm tội lần
này đã quá 1 năm;
- Người bị kết án về các tội do vô ý mà đã được xóa
án tích;
- Người đã bị đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc từ hai
lần trở lên mà thời gian được coi là chưa bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính
tính đến ngày phạm tội lần này đã quá 2 năm;
- Người đã bị đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc một lần
và có nhiều lần bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc xử lý kỷ luật mà thời gian
được coi là chưa bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính, chưa bị xử phạt vi phạm
hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật tính đến ngày phạm tội lần này đã quá 2 năm;
- Người đã bị đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc mà thời
gian được coi là chưa bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính tính đến ngày phạm
tội lần này đã quá 18 tháng;
- Người đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc xử lý
kỷ luật từ hai lần trở lên mà thời gian được coi là chưa bị xử phạt vi phạm
hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật tính đến ngày phạm tội lần này đã quá 18
tháng;
- Người đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc xử lý
kỷ luật về hành vi có cùng tính chất với hành vi phạm tội lần này mà thời gian
được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật tính đến
ngày phạm tội lần này đã quá 1 năm;
- Người đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc xử lý
kỷ luật mà thời gian được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị xử
lý kỷ luật tính đến ngày phạm tội lần này đã quá 6 tháng;
- Người đã bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính
giáo dục tại xã, phường, thị trấn, đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa vào cơ sở
cai nghiện bắt buộc đã hết thời hạn được coi là chưa bị xử lý hành chính;
Khi đánh giá nhân thân người phạm tội phải xem xét
toàn diện tất cả những đặc điểm về nhân thân, trong đó cần chú ý, những đặc điểm
nhân thân ảnh hưởng đến khả năng tự giáo dục, cải tạo. Thái độ của người phạm tội
sau khi gây án và khi bị xét xử cũng có ý nghĩa nhất định đến việc cho họ được
hưởng án treo hay không.
+ Điều kiện thứ ba: về các tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự
Các tình tiết giảm nhẹ để xem xét cho hưởng án treo
phải là những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS năm
2015, cũng như các tình tiết giảm nhẹ được Tòa án các định trong từng vụ án cụ
thể (phù hợp quy định của khoản 2 Điều 51 BLHS năm 2015).
Tòa án xem xét cho hưởng án treo là phải cân nhắc cả
về tính chất và số lượng các tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng trách nhiệm
hình sự thuộc về người bị kết án, nhằm bảo đảm cho việc hưởng án treo được áp dụng
một cách chặt chẽ, nghiêm túc. Theo hướng dẫn của Nghị quyết 01/2013/NQ-HĐTP,
Tòa án chỉ cho hưởng án treo nếu thuộc các trường hợp sau:
- Không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
quy định tại khoản 1 Điều 48 của BLHS năm 1999 (nay là Điều 52 BLHS năm 2015)
và có từ hai tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên trong đó có ít nhất
một tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 của BLHS (nay là Điều 51
BLHS năm 2015);
- Nếu có một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
thì phải có từ ba tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên, trong đó có
ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 của BLHS (nay là Điều
51 BLHS năm 2015).
+ Điều kiện thứ 4: thuộc trường hợp không cần bắt buộc
chấp hành hình phạt tù
Khi áp dụng án treo, Tòa án chủ yếu dựa vào 03 căn cứ
nêu trên để có thể kết luận khả năng tự giáo dục, cải tạo của người bị kết án
tù với sự giúp đỡ của cơ quan, tổ chức, xã hội, nhà trường và gia đình… Mặt
khác, Tòa án phải đối chiếu với yêu cầu phòng ngừa và chông tội phạm ở từng loại
tội trong môi trường xã hội cụ thể của từng thời kỳ. Người phạm tội thuộc trường
hợp được hưởng án treo phải là người thực sự có khả năng tự hoàn lương trong
môi trường xã hội cụ thể, không có nguy cơ tái phạm, bởi tính chất loại tội phạm
họ dã thực hiện cũng như do ảnh hưởng xấu của đối tượng xung quanh.
Theo hướng dẫn tại Nghị quyết 01/2013/NQ-HĐTP thì
không cho hưởng án treo nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Người phạm tội thuộc đối tượng cần phải nghiêm trị
quy định tại khoản 2 Điều 3 của BLHS năm 1999 (nay là khoản 1 Điều 3 BLHS năm
2015) bao gồm: người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối, lưu manh,
côn đồ, tái phạm nguy hiểm, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội; người phạm
tội dùng thủ đoạn xảo quyệt, có tổ chức, có tính chất chuyên nghiệp, cố ý gây hậu
quả nghiêm trọng; phạm tội đặc biệt nghiêm trọng;
- Bị xét xử trong cùng một lần về nhiều tội;
- Trong hồ sơ thể hiện là ngoài lần phạm tội và bị
đưa ra xét xử, họ còn có hành vi phạm tội khác đã bị xét xử trong một vụ án
khác hoặc đang bị khởi tố, điều tra, truy tố trong một vụ án khác;
- Bị cáo tại ngoại bỏ trốn trong giai đoạn chuẩn bị
xét xử, Tòa án đã đề nghị cơ quan điều tra truy nã.
Comments