* Thời hiệu
trong lĩnh vực thừa kế
1.
Cho biết
các loại thời hiệu trong lĩnh vực thừa kế.
Theo Luật thừa kế Việt Nam - Bản án và bình luận án - Tập
2 - Tái bản lần thứ 2 Đỗ Văn Đại thì: “Hiện
nay có hai loại thời hiệu trong lĩnh vực thừa kế. Loại thứ nhất là thời hiệu
giải quyết những vấn đề liên quan đến việc thực hiện nghĩa vụ của người để lại
di sản.” và “Loại thời hiệu thứ hai
liên quan đến yêu cầu thừa kế của người khác.”
Theo Điều 645 BLDS 2005 và 623 BLDS 2015, thời hiệu trong
lĩnh vực thừa kế có hai loại. Cụ thể là:
·
Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu
cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của
người khác;
·
Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người
thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại.
^
2.
Yêu cầu
của ông Trạch có trong thời hiệu không trong trường hợp nhà ở do cụ Tành và cụ Chắc tạo lập? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Để xác định yêu cầu của ông Trạch có có trong thời hiệu
trong trường hợp nhà ở do cụ Tành và cụ Chắc tạo lập không. Ta cần phải xác
định thời điểm mở thừa kế. Theo Luật thừa kế Việt Nam - Bản án và bình luận án -
Tập 2 - Tái bản lần thứ 2 Đỗ Văn Đạị, tr.571 thì đối với các trường hợp mà “các bên tham gia tranh chấp về một tài sản
do nhiều người chết để lại (nhưng chết ở các thời điểm khác nhau)” thì ta
phải xác định thời thời điểm mở thừa kế đối với di sản của từng người phụ thuộc
vào thời điểm chết của họ. Tác giả cũng khẳng định: “Tòa án không thể sử dụng ngày chết của người này để xác định thời điểm
mở thừa kế cho người khác.”
Xét vào tình huống trên ta thấy, cụ Tành chết năm 2/1986
và cụ Chắc chết năm 12/2006. Như vậy, thời điểm mở thừa kế đối với phần di sản
mà cụ Tành để lại là tháng 2/1986, nhưng do Pháp lệnh thừa kế có hiệu lực từ
10/9/1990, nên thời hiệu thừa kế đối với di sản của cụ Tành được tính từ ngày
10/9/1990. Tính từ thời điểm đó đến khi ông Trạch yêu cầu chia thừa kế di sản
của hai cụ thì đã quá 10 năm. Áp dụng Điều 645 BLDS 2005 thì yêu cầu của ông
Trạch đối với phần di sản của cụ Tành đã hết thời hiệu, không giải quyết.
Còn với phần di sản của cụ Chắc, vì cụ mất vào tháng
12/2006, thời hiệu thừa kế bắt đầu cũng chính là thời điểm mở thừa kế. Tính từ
thời điểm đó đến nay chưa đến 10 năm. Do đó, yêu cầu của ông Trạch đối với phần
di sản của cụ Chắc vẫn còn thời hiệu, vẫn được giải quyết.
^
3.
Câu trả
lời cho câu hỏi trên có khác không khi bà Sắc định cư tại Mỹ từ năm 1990 và nhà
ở do cụ Tành và cụ Chắc tạo lập? Vì sao?
Câu trả lời cho câu hỏi trên không có khác khi bà Sắc
định cư tại Mỹ từ năm 1990 và nhà ở do cụ Tành và cụ Chắc tạo lập. Bởi lẽ, căn
cứ vào Khoản 2 Điều 39 của Nghị quyết 1037/2006/NQ-UBTVQH11 quy định: “Thời gian từ ngày 01 tháng 7 năm 1996 đến
ngày Nghị quyết này có hiệu lực không tính vào thời hiệu trong thủ tục giải
quyết các vụ án dân sự đối với giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước
ngày 01 tháng 7 năm 1991 có người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia.” và Điều 41 của Nghị quyết trên: “Nghị quyết này có hiệu lực kể từ ngày 01
tháng 9 năm 2006.”
Xét vào tình huống đã cho ta thấy: thời điểm mở thừa kế
đối với di sản cụ Tành và cụ Chắc cũng không có gì thay đổi. Tuy nhiên, bà Sắc
sang định cư tại Mỹ từ năm 1990. Như vậy thời hiệu thừa kế sẽ có sự thay đổi.
Đầu tiên ta xét thời hiệu thừa kế đối với phần di sản của
cụ Tành. Do bà Sắc định cư tại Mỹ từ năm 1990, nên khoảng thời gian bà sống tại
Mỹ từ ngày 1 tháng 7 năm 1991 đến ngày 1 tháng 9 năm 2006 sẽ không tính vào
thời hiệu thừa kế. Vậy thời hiệu thừa kế đối với di sản của cụ Tành sẽ giảm đi
được 10 năm 2 tháng. Tuy nhiên, khi tính đến thời điểm ông Trạch yêu cầu chia
di sản của hai cụ thì thời hiệu yêu cầu chia di sản vẫn vượt quá 10 năm theo
quy định tại Điều 645 BLDS 2005, nên yêu cầu chia di sản của ông Trạch đối với
phần di sản của cụ Tành đã hết thời hiệu.
Còn đối với phần di sản của cụ Chắc do cụ mất tháng
12/2006 đã nằm ngoài thời gian quy định tại vào Khoản 2 Điều 39 của Nghị quyết
1037/2006/NQ-UBTVQH11, nên yêu cầu chia
di sản của ông Trạch đối với phần di sản của cụ Chắc vẫn còn thời hiệu.
^
4.
Câu trả
lời cho câu hỏi đầu tiên có khác không khi bà Sắc định cư tại Mỹ từ năm 1990
nhưng nhà ở trên đất không là của cụ Tành và cụ Chắc (mà do người quen được
mượn đất cất nhà để ở nhờ)? Vì sao?
Câu trả lời cho câu hỏi đầu tiên có không khác khi bà Sắc
định cư tại Mỹ từ năm 1990 nhưng nhà ở trên đất không là của cụ Tành và cụ Chắc
(mà do người quen được mượn đất cất nhà để ở nhờ).
Với câu hỏi này ta cần phải làm rõ hai vấn đề là thời
hiệu yêu cầu chia di sản và thời hiệu yêu cầu đòi lại di sản.
·
Đối với thời hiệu yêu cầu đòi lại di sản
thì theo Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP quy định tại Điểm b mục 2.4: “Trường hợp người chết để lại di sản cho các
thừa kế nhưng các thừa kế không trực tiếp quản lý, sử dụng mà di sản đó đang do
người khác chiếm hữu bất hợp pháp hoặc thuê, mượn, quản lý theo uỷ quyền... thì
các thừa kế có quyền khởi kiện người khác đó để đòi lại di sản.” Xét vào tình huống đã cho, ta thấy mặc dù nhà
trên đất không thuộc di sản của hai cụ Tành và cụ Chắc. Nhưng phần đất vẫn được
xét là di sản của hai cụ. Áp dụng theo Điểm b mục 2.4 Nghị quyết số
02/2004/NQ-HĐTP thì ông Trạch vẫn còn thời hiệu kiện đòi lại di sản của hai cụ.
Trong Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận án - Tập 2 - Tái bản lần thứ 2
Đỗ Văn Đại tr. 598 có nêu rõ: “Trong mối
quan hệ với người không phài là người thừa kế nhưng đang quản lý di sản thì các
quy định về thời hiệu thừa kế 10 năm nêu trên không được áp dụng. Ở đây, người
thừa kế có thể kiện người đang quản lý ở bất kì thời điểm nào để đòi lại di sản.”
·
Còn đối với thời hiệu yêu cầu chia di
sản của ông Trạch thì câu trả lời vẫn không thay đổi. Yêu cầu của ông Trạch đã
hết thời hiệu giải quyết.
^
5.
Theo quy
định hiện hành, trong trường hợp (điều kiện) nào di sản (hết thời hiệu khởi
kiện để chia thừa kế) được chuyển thành tài sản chung của các đồng thừa kế?
Theo Nghị quyết
số 02/ 2004/ NQ-HĐTP ngày 10-8-2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao quy định: “Trường hợp trong thời hạn
mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về
quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc
thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và
đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành
tài sản chung của các thừa kế.”
^
6.
Nếu hết
thời hiệu chia di sản thừa kế và không đủ điều kiện chuyển di sản thành tài sản
chung của các đồng thừa kế, di sản thừa kế được xử lý như thế nào?
Đây là một câu hỏi với nhiều luồng ý kiến khác nhau và
cũng chính là một trong những bất cập của pháp luật Việt Nam.
Khoản 3 Điều 155 BLDS 2005 quy định: “Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu
cầu Toà án giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm
phạm; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện.” Với quy định trên
ta có thể hiểu là khi thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia di sản không còn thì
quyền yêu cầu chia di sản cũng chấm dứt. Đồng nghĩa với việc “Tòa án không được chia di sản yêu cầu của
người thừa kế khi thời hiệu yêu cầu chia di sản đã hết.” (trích Luật thừa
kế Việt Nam – Bản án và bình luận án, Tập 2, Tái bản lần thứ 2 – Đỗ Văn Đại).
Đồng thời, Tưởng Duy Lượng trong Vấn đề lý luận và thực tiễn khi xử lý tài sản
hết thời hiệu và thời hiệu thi hành án – Tạp chí Tòa án nhân dân, số 9/2010,
tr.21 nêu rõ: “Chưa có một văn bản pháp
luật nào quy định tài sản đó thuộc sở hữu của ai, cơ quan nào có thẩm quyền xử
lý, trình tự xử lý như thế nào.”
Theo Luật thừa kế Việt Nam – Bản án và bình luận án, Tập 2, Tái bản lần
thứ 2 – Đỗ Văn Đại, thì áp dụng các luật hiện hành, Tòa án hiển nhiên sẽ không
giải quyết các yêu cầu đương sự, nhưng ngược lại nếu tòa vẫn quyết định di sản
cho ai quản lý thì “Tòa án đã giải quyết
vụ việc” và “đi ngược lại với chế định thời hiệu.”
Tuy nhiên, trên
thực tế xét xử, Tòa án vẫn giải quyết trường hợp nêu trên. Trong tham luận của
Hội nghị tổng kết ngành 2008 có quan điểm cho rằng: với các vụ việc nêu trên
Tòa án buộc phải chia di sản ra thành hai phần. Phần thứ nhất là “di sản đã hết
thời hiệu khởi kiện về thừa kế”, phần hai là “di sản còn thời hiệu về thừa kế”.
Như vậy, Tòa án song song giải quyết hai vấn đề: “chia thừa kế đối với đối với phần tài sản thừa kế còn thời hiệu khởi
kiện về thừa kế” và “tạm giao phần di
sản đã hết thời hiệu khởi kiện cho người thừa kế đang quản lý di sản hết thời
hiệu”. Tưởng Duy Lượng trong Vấn đề lý luận và thực tiễn khi xử lý tài sản
hết thời hiệu và thời hiệu thi hành án, bđd tr.27 cũng đưa ra hướng giải quyết
cho trường hợp này: “di sản thuộc về
người thừa ở hàng thừa kế thứ nhất hoặc người thừa kế thế vị đang thực tế quản
lý, chiếm hữu di sản. Nếu không còn ai ở hàng thừa kế thứ nhất, kể cả thừa kế
thế vị, mà chỉ có người thừa kế ở hàng thừa kế thứ hai, thì người nào ở hàng
thừa kế thứ hai đang thực tế quản lý, chiếm hữu di sản đó sẽ được xác lập quyền
sở hữu di sản đã hết thời hiệu khởi kiện đó.”
Như vậy, ta thấy
rõ sự bất cập của BLDS 2005 trong chế định thời hiệu thuộc lĩnh vực thừa kế.
Theo Luật thừa kế Việt Nam – Bản án và bình luận án, Tập 2, Tái bản lần thứ 2 –
Đỗ Văn Đại, thì nguyên nhân chính dẫn đến bất cập như trên “là do thời hiệu 10 năm quá ngắn so với thực tế Việt Nam”. Đồng
thời, tác giả cũng nêu ra hai giải pháp để khắc phục vấn đề trên. Thứ nhất là
không cần quy định thời hiệu yêu cầu chia di sản, thứ hai là “quy định thời hạn không là 10 năm mà nhiều
hơn thế nữa”. BLDS 2015 đã sử dụng phương án thứ hai khi quy định thời hiệu
thừa kế tại Điều 623.
^
7.
Cần xử
lý phần di sản do cụ Tành để lại như thế nào trong tình huống trên? Vì sao?
Theo tình huống, cụ Tành mất vào tháng 2/1986, cụ Chắc
mất tháng12/2006, mất sau thời điểm mở thừa kế phần di sản của cụ Tành. Từ lúc cụ
Tành mất đến thời điểm ông Trạch yêu cầu chia di sản đã quá 10 năm và trong
suốt thời gian đó không có phát sinh tranh chấp. Như vậy, cụ Chắc (vợ) và ba
người con của cụ Tành đã thỏa mãn đủ điều kiện trở thành đồng thừa kế theo Điểm
a Mục 2.4 của Nghị quyết số 02/ 2004/ NQ-HĐTP ngày 10-8-2004 của Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao (điều kiện để trở thành đồng thừa kế đã trả lời ở
câu 7).
Như vậy, ta áp dụng Điểm a.3 Mục 2.4 của Nghị quyết số
02/ 2004/ NQ-HĐTP ngày 10-8-2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao: “a.3. Trường hợp không có di chúc và
các đồng thừa kế không có thoả thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu
cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo quy định
của pháp luật về chia tài sản chung.”, cùng với Điểm a Khoản 1 Điều 676 và
Khoản 2 Điều 676, thì phần di sản của cụ Tành sẽ được chia đều cho cả ba người
con và vợ là cụ Chắc đều thuộc hàng thừa kế thứ nhất.
^
8.
Câu trả
lời cho các câu hỏi trên có khác không khi ông Trạch yêu cầu chia di sản vào tháng
1/2017? Vì sao?
Câu trả
lời cho câu hỏi trên có khác khi ông Trạch yêu cầu chia di sản vào tháng
1/2017. Lúc này, BLDS 2015 đã có hiệu lực. Và theo Khoản 1 Điều 623 về thời
hiệu thừa kế: “Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm
đối với bất động sản và 10 năm đối với động sản. Hết thời hạn này thì di sản
thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó. Trường hợp không có người thừa
kế đang quản lý di sản thì di sản được giải quyết như sau:
a) Di
sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo quy định tại Điều 236 của
Bộ luật này;
b) Di
sản thuộc về Nhà nước nếu không có người chiếm hữu theo quy định tại điểm a
khoản này.”
Theo tình huống đã cho, di sản của cụ Tành và cụ Chắc để
lại là bất động sản (một mảnh đất và trên đất có nhà ở) như vậy thời hiệu
để người thừa kế yêu cầu chia di sản này
là 30 năm. Nếu tính đến tháng 1/2017 thì cụ Tành đã mất hơn 30 năm và cụ Chắc đã mất hơn 10 năm. Vì lẽ đó phần
di sản để lại của cụ Tành đã hết thời hiệu yêu cầu chia di sản nên phần di sản
này sẽ tiếp tục giao cho ông Chanh quản lý. Còn phần di sản của cụ Chắc sẽ được
chia theo quy định của pháp luật.
Comments