* Nghĩa vụ tài
sản và hợp đồng của người để lại di sản
1.
Theo BLDS,
nghĩa vụ nào của người quá cố sẽ đương nhiên chấm dứt và những nghĩa vụ nào của
người quá cố sẽ không đương nhiên chấm dứt? Nêu cơ sở pháp lí khi trả lời.
Theo Khoản 8 Điều 374 BLDS 2005, nghĩa vụ dân sự chấm dứt
trong trường hợp: “Bên có nghĩa vụ là cá
nhân chết hoặc là pháp nhân, chủ thể khác chấm dứt mà nghĩa vụ phải do chính cá
nhân, pháp nhân, chủ thể đó thực hiện.” Như vậy, vì người quá cố là người
đã chết nên nghĩa vụ phải do chính người quá cố đó thực hiện sẽ đương nhiên
chấm dứt. Nếu nghĩa vụ mà người quá cố để lại không thuộc loại nghĩa vụ nêu
trên (như nghĩa vụ tài sản), chúng ta được suy luận là nghĩa vụ này không đương
nhiên chấm dứt[1].
^
2.
Theo
BLDS, ai là người phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người quá cố? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời.
Theo BLDS, những người thừa kế di sản là
người phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người quá cố.
Ngoài ra khoản 2 điều 637 BLDS 2005 quy định: “Trong trường hợp di sản chưa được chia
thì nghĩa vụ tài sản do người chết để lại được người quản lý di sản thực hiện
theo thoả thuận của những người thừa kế.” Với quy định
này, thực chất người phải thực hiện nghĩa vụ vẫn là những người thừa kế và
người quản lý chỉ đứng ra thực hiện thay.
Đối với tài sản không có người nhận di sản, BLDS chỉ quy
định: “Trong trường hợp không có thừa kế
theo di chúc, theo pháp luật hoặc có nhưng không được quyền hưởng di sản, từ
chối nhận di sản thì tài sản còn lại sau khi đã thực hiện nghĩa vụ về tài sản
về tài sản mà không có người nhận thừa kế thuộc Nhà nước”(Điều 644). Ở đây,
chúng ta không rõ ai thực hiện nghĩa vụ tài sản của người chết nhưng tài sản
chỉ thuộc Nhà nước khi đã thực hiện nghĩa vụ về tài sản.
Bên cạnh đó, khoản 4 Điều 648 BLDS quy định người để lại
di sản lập di chúc có quyền “giao nghĩa
vụ cho người thừa kế” nên nếu người lập di chúc giao cho một người thừa kế
thực hiện nghĩa vụ tài sản thì người được chỉ định này là người thực hiện nghĩa
vụ tài sản (khi chấp nhận tài sản).
“Trước khi chia
di sản, những người thừa kế phải thanh toán các nghĩa vụ của người chết xong
còn lại mới phân chia. Việc thực hiện nghĩa vụ không phải với tư cách chủ thể
của nghĩa vụ do họ xác lập mà thực hiện các nghĩa vụ của người chết để lại bằng
chính tài sản của người chết”[2].
Cơ sở pháp lí:
Kể từ
thời điểm mở thừa kế, những người thừa kế có các quyền, nghĩa vụ tài sản do
người chết để lại.
1. Những
người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di
sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
2. Trong
trường hợp di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do người chết để lại được
người quản lý di sản thực hiện theo thoả thuận của những người thừa kế.
3. Trong
trường hợp di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản
do người chết để lại tương ứng nhưng không vượt quá phần tài sản mà mình đã
nhận, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
4. Trong
trường hợp Nhà nước, cơ quan, tổ chức hưởng di sản theo di chúc thì cũng phải
thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như người thừa kế là cá nhân.
Điều 644. Tài sản
không có người nhận thừa kế thuộc Nhà nước.
Trong
trường hợp không có người thừa kế theo di chúc, theo pháp luật hoặc có nhưng
không được quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản thì tài sản còn lại sau khi
đã thực hiện nghĩa vụ về tài sản mà không có người nhận thừa kế thuộc Nhà nước.
Điều 648. Quyền
của người lập di chúc.
Người
lập di chúc có các quyền sau đây:
1. Chỉ
định người thừa kế, truất
quyền hưởng di sản của người thừa kế;
2. Phân
định phần di sản cho từng người thừa kế;
3. Dành
một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng;
4. Giao
nghĩa vụ cho người thừa kế;
5. Chỉ
định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản.
^
3.
Nghĩa vụ
của bà Loan đối với ngân hàng có là nghĩa vụ về tài sản không? Vì sao?
Nghĩa vụ của bà Loan đối với ngân hàng là nghĩa vụ về tài
sản vì theo Khoản 8 Điều 683 BLDS 2005 thì nghĩa vụ tài sản của người quá cố có
bao gồm “các khoản nợ khác đối với cá nhân, pháp nhân hoặc chủ thể khác” (Bà
Loan có khoản nợ 100.000.000đ với ngân hàng).
^
4.
Nếu ngân
hàng yêu cầu được thanh toán, ai là người phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ trên
của bà Loan? Vì sao?
Nếu ngân hàng yêu cầu được thanh toán, những
người thừa kế là các con của bà Loan là người phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ
trên của bà Loan.
Vì các con bà Loan đã chia thừa kế di sản của bà Loan nên
theo khoản 3 Điều 637 BLDS 2005 thì: “Trong
trường hợp di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản
do người chết để lại tương ứng nhưng không vượt quá phần tài sản mà mình đã
nhận, trừ trường hợp có thoả thuận khác.” Ngoài ra nếu bà
Loan có chỉ định trong di chúc người trả nợ là ai thì người đó phải trả nợ nếu
nhận di sản theo Khoản 4 Điều 648 BLDS 2005.
Người
lập di chúc có thể chỉ định một hoặc một số người thực hiện những nghĩa vụ nhất
định. Tuy nhiên, các nghĩa vụ này không phải là di sản vì di sản không bao gồm
nghĩa vụ. Về nguyên
tắc, người lập di chúc chỉ có thể chỉ định thực hiện nghĩa vụ trong phạm vi di
sản mà người thừa kế theo di chúc được hưởng.
^
5.
Trong
quyết định số 26, ai là người có công chăm sóc, nuôi dưỡng người quá cố khi họ
còn sống?
Trong quyết định số 26, ông Vân, ông Vi là
người có công chăm sóc, nuôi dưỡng người quá cố khi họ còn sống.
Theo đoạn cuối cùng của phần Xét thấy trong Quyết định số
26 thì “Ông Vân là người có công chăm sóc
cha mẹ và ông Vi có công lớn trong việc nuôi dưỡng cha mẹ (ông Vi là người gởi
tiền cho cha mẹ để không phải bán nhà).”
^
6.
Trong
quyết định trên, theo tòa giám đốc thẩm, công sức chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ
của ông Vân, ông Vi được xử lí như thế nào?
Theo Tòa giám đốc thẩm, cần “xác định rõ công
sức chăm sóc cha mẹ và quản lý di sản mà ông Vân, ông Vi được hưởng là bao
nhiêu để đối trừ, số tiền còn lại mới chia cho các đồng thừa kế.”
^
7.
Suy nghĩ
của anh/chị về xử lí trên của Tòa giám đốc thẩm (trong mối quan hệ với các quy định về nghĩa vụ của người quá
cố).
Cách xử lí trên của Tòa giám đốc thẩm hợp tình, hợp lý, phù hợp với quy
định của pháp luật. Vì căn cứ theo Điều 683, công sức chăm sóc cha mẹ và quản lý di
sản của ông Vân, ông Vi cần phải được đối trừ và được xem như là nghĩa vụ
tài sản và các khoản chi phí liên quan đến thừa kế.
Điều 683. Thứ tự
ưu tiên thanh toán
Các
nghĩa vụ tài sản và các khoản chi phí liên quan đến thừa kế được thanh toán
theo thứ tự sau đây:
1. Chi
phí hợp lý theo tập quán cho việc mai táng;
2. Tiền
cấp dưỡng còn thiếu;
3. Tiền
trợ cấp cho người sống nương nhờ;
4. Tiền
công lao động;
5. Tiền
bồi thường thiệt hại;
6. Thuế
và các khoản nợ khác đối với Nhà nước;
7. Tiền
phạt;
8. Các
khoản nợ khác đối với cá nhân, pháp nhân hoặc chủ thể khác;
9. Chi
phí cho việc bảo quản di sản;
10. Các
chi phí khác.
Theo khoản 9, ông Vân sẽ được thanh toán chi phí cho việc
bảo quản di sản là căn nhà số 708 Ngô Gia Tự từ năm 1992 đến năm 2006
(khi cụ Thịnh sang tên sổ đỏ, nhà đất cho ông Vân). Tuy nhiên, “khi giải quyết thừa kế, tòa án thường không
tính cụ thể những chi phí bảo quản di sản để cho phép người bảo quản được hưởng
những chi phí này mà đôi khi dành cho họ một kì phần. Trong trường hợp người
quản lí di sản đã khai thác, hưởng dụng từ di sản thì Tòa án đã theo hướng công
sức duy trì, bảo quản di sản không thể vượt quá một kỉ phần thừa kế”[3].
Công sức chăm sóc cha mẹ và quản lý di sản mà ông
Vân, ông Vi được hưởng sẽ được đối trừ theo khoản 10
(các chi phí khác). “Trong thực
tế, người bảo quản di sản thường là người thực hiện công việc mai táng cho
người quá cố và chăm sóc người quá cố trước khi chết nên người này được thanh
toán chi phí hợp lí cho việc mai táng, chi phí cho việc bảo quản di sản cũng
như công sức chăm sóc người quá cố trước khi chết (một loại nghĩa vụ về tài sản
của người quá cố)”[4].
Ω
[1] Đỗ Văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam - Bản
án và bình luận bản án, Nxb. CTQG
2013 (tái bản lần thứ nhất), tr.
391.
[2] Nguyễn Xuân Quang, Giáo trình Pháp
luật về tài sản, quyền sở hữu tài sản và quyền thừa kế của Đại học Luật TP.
HCM, Nxb. Hồng Đức 2012, tr.
194.
[3] Đỗ Văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam-Bản
án và bình luận bản án, Nxb. CTQG 2013 (tái bản lần thứ nhất), tr 451, 452.
[4] Đỗ Văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam-Bản
án và bình luận bản án, Nxb. CTQG 2013 (tái bản lần thứ nhất), tr 454.
Comments